1. Người khuyết tật và năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Người khuyết tật năm 2010 thì “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền được tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật... (Điều 4 của Luật Người khuyết tật 2010).
Mặc dù đã được và Nhà nước quan tâm, có những chính sách nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật, nhưng trên thực tế do có những khó khăn, hạn chế về khả năng nghe, nhìn, đọc, viết,... nên việc người khuyết tật thực hiện các giao dịch dân sự có gặp khó khăn, từ đó có cách hiểu người khuyết tật là người bị mất năng lực hành vi dân sự. Nhận thức này không phù hợp với quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự, cụ thể:
Theo quy định tại Điều 19 của Bộ luật Dân sự năm 2015: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Khoản 1 Điều 22 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về mất năng lực hành vi dân sự quy định: “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”.
Khoản 1 Điều 23 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi quy định: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”.
Khoản 1 Điều 24 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hạn chế năng lực hành vi dân sự quy định: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”.
Như vậy, việc xác định mất năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là xuất phát từ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của một người và phải được Tòa án ra quyết định tuyên bố trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Rõ ràng, việc một người bị khuyết tật không phải là căn cứ để xác định mất năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 22, Điều 23, 24 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và đã thành niên thì người khuyết tật có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định tại tại Điều 19 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Thủ tục công chứng trong trường hợp người khuyết tật tham gia giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 47 của Luật Công chứng năm 2014, trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định.
Điều 48 của Luật Công chứng năm 2014 quy định người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên. Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau đây: Công chứng di chúc; theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.
3. Người bị khuyết tật mất cả hai bàn tay thể hiện ý chí như thế nào?
Phương thức thể hiện ý chí của một người trên văn bản hợp đồng, giao dịch là thông qua chữ ký hoặc điểm chỉ. Đối với người khuyết tật không có cả hai bàn tay thì vấn đề này như thế nào? Mặc dù pháp luật công chứng có quy định trường hợp người yêu cầu công chứng không ký, điểm chỉ được thì việc công chứng phải có người làm chứng. Vậy nhưng, pháp luật công chứng cũng đồng thời yêu cầu người yêu cầu công chứng phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên; hoặc điểm chỉ nếu người yêu cầu công chứng không ký được; hoặc vừa điểm chỉ vừa ký trong một số trường hợp.
Để có phương thức giải quyết thống nhất, bảo đảm quyền lợi của người khuyết tật, pháp luật cần có quy định cụ thể về việc thể hiện ý chí trên giấy tờ, văn bản của người khuyết tật hai bàn tay mà không thể ký và điểm chỉ được./.
Phòng Công chứng số 3 (Sưu tầm)
(Nguồn: https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=7064)
Tác giả: Quản trị
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn