Hỏi – Đáp các quy định của pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid - 19

Thứ ba - 31/03/2020 21:00

Đọc bằng audio

1. Hỏi:  Theo Chỉ thị 15/CT-TTg, từ 0h ngày 28/3/2020 phải tạm dừng tất cả các hoạt động hội họp, các sự kiện tập trung trên 20 người. Cấm tụ tập nhiều hơn 10 người ở bên ngoài các công sở và trường học, bệnh viện. Xin hỏi những trường hợp không chấp hành chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ mà cố tình tụ tập đông người, pháp luật xử lý hành vi này như thế nào?

Trả lời:

Đối với những trường hợp cố tình tụ tập đông người, pháp luật có chế tài xử phạt khá nghiêm khắc. Cụ thể, Điểm c Khoản 4 Điều 11 Nghị Định 176/2013/NĐ-CP quy định như sau:

Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với hành vi: Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng.

Như vậy, đối với hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng, mức phạt từ 5 - 10 triệu đồng.

Để tránh bị xử phạt, người dân cần ghi nhớ lịch cấm tụ tập trên 10 người trong vùng có dịch sẽ bắt đầu từ 0h ngày 28/3 đến hết ngày 15/4/2020.

2. Hỏi:  Không chấp hành yêu cầu đeo khẩu trang nơi công cộng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 và Quyết định số 07/2020/QĐ-TTg ngày 26/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ thì bệnh Covid-19 thì được xếp vào bệnh truyền nhiễm nhóm A.

Đối chiếu quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 thì những người không đeo khẩu trang nơi công cộng có dấu hiệu vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Khoản 7 Điều 8 của Luật này. Cụ thể, điều khoản này nghiêm cấm hành vi không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Tùy vào tính chất và mức độ của hành vi mà người vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

Cụ thể, Điểm a Khoản 1 Điều 11 của Nghị định này quy định: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong các hành vi không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế.

Ngoài ra, nếu người bị dịch bệnh, không đeo khẩu trang mà làm lây lan vi rút Covid-19 cho người khác còn có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự về "Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người" quy định tại Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cụ thể, trường hợp vi phạm dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế và/hoặc làm chết người, thì có thể sẽ bị phạt tù lên đến 10 năm. Trường hợp vi phạm dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, làm chết 2 người trở lên, thì có thể sẽ bị phạt tù lên đến 12 năm.

3. Hỏi:  Sau khi Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tạm đình chỉ hoạt động các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn, trừ các cơ sở kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu tại Chỉ thị 15/CT-TTg, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số cơ sở kinh doanh hoạt động trong thời gian bị yêu cầu tạm đóng cửa . Xin hỏi, trường hợp này xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 11 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi: " Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng".

Như vậy, cơ sở kinh doanh hoạt động trong thời gian bị yêu cầu tạm đóng cửa sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Đồng thời, theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau: " Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán bar, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát – xa, cơ sở thẩm mỹ …) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng, chống dịch bệnh Covid – 19 của cơ quan, người có thẩm quyền, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295.

Điều 295 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định mức phạt tù thấp nhất là 01 năm, cao nhất là 12 năm. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

4. Hỏi:  Gia đình Ông A có con gái đi du học ở Anh, vừa trở về nước để tránh dịch. Tuy nhiên, khi về đến sân bay đã được đưa vào khu cách ly tập trung theo dõi trong thời hạn 14 ngày. Vì thương và muốn vào thăm con gái nên Ông A đã đề nghị quản lý khu cách ly cho vợ chồng ông được vào thăm con gái. Xin hỏi, người quản lý khu cách ly có được phép cho vợ chồng Ông A vào trong khu cách ly để thăm con không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm c Khoản 6 Điều 11 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đưa người, phương tiện không có nhiệm vụ vào ổ dịch tại vùng đã được ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch

Như vậy, hành vi đưa người, phương tiện không có nhiệm vụ vào khu vực đang cách ly là hành vi vi phạm pháp luật, người quản lý khu cách ly không được phép cho vợ chồng ông A vào khu cách ly thăm con gái, nếu thực hiện hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

5. Hỏi:  Vừa qua, có nhiều trường hợp người bị nhiễm vi rút Covid – 19 từ các vùng tâm dịch trở về Việt Nam nhưng đã cố tình không khai báo hoặc không khai báo trung thực về tình hình nhiễm dịch bệnh của bản thân đã làm lây lan cho nhiều người. Xin hỏi, những trường hợp này bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo Điểm a Khoản 1 Điều 9 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi: Không khai báo hoặc khai báo không trung thực, kịp thời diễn biến bệnh truyền nhiễm của bản thân với thầy thuốc, nhân viên y tế được giao nhiệm vụ;

Đồng thời, cơ quan chức năng có căn cứ cho thấy nếu bệnh nhân cố tình giấu thông tin dẫn đến hậu quả bệnh dịch lây lan hoặc có người chết do bị lây nhiễm, thì có thể khởi tố những trường hợp này về tội Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người quy định tại Điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau:

- Đối với người đã được  thông báo mắc bệnh: Người nghị ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid – 19 đã được thông báo cách ly thực hiện một trong các hành vi sau đây: gây lây truyền dịch bệnh Covid – 19 cho người khác thì bị coi là thực hiện "hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người" quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người:

a) Trốn khỏi nơi cách ly;

b) Không tuân thủ quy định về cách ly;

c) Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;

d) Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

- Người chưa xác định mắc bệnh Covid – 19 nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295:

a) Trốn khỏi nơi cách ly;

b) Không tuân thủ quy định về cách ly;

c) Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;

d) Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

6. Hỏi:  Đối với những trường hợp bị nhiễm Covid – 19 đã được điều trị khỏi, sau khi ra khỏi bệnh viện không đến trạm y tế xã, phường, thị trấn để đăng ký theo dõi sức khỏe có bị xử lý không?

Trả lời:

Theo Điểm c Khoản 1 Điều 9 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi: Không đăng ký theo dõi sức khỏe với trạm y tế xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là trạm y tế xã) nơi cư trú của người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A sau khi ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Như vậy, đối với những trường hợp bị nhiễm Covid – 19 đã được điều trị khỏi, sau khi ra khỏi bệnh viện phải đến trạm y tế xã, phường, thị trấn nơi mình thường trú hoặc tạm trú để đăng ký theo dõi sức khỏe và bệnh nhân sẽ tiếp tục tự cách ly tại gia đình trong 14 ngày theo hướng dẫn, nếu không thực hiện sẽ bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.

7. Hỏi:  Hành vi thông tin giả mạo, sai sự thật , thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh Covid – 19, gây dư luận xấu bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Điều 8 Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm hành vi thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại đến hoạt động kinh tế xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

- Người cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng (điểm a khoản 3 Điều 64 Nghị định số  174/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện).

Đối với trường hợp cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (điểm g Khoản 3 Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP). Ngày 03/2/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử; có hiệu lực thi hành từ 15/4/2020 và thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

Theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau:

Người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh Covid – 19, gây dư luận xấu thì bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định tại Điều 288 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

8. Hỏi:  Người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác liên quan tới dịch bệnh Covid-19 thì bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi để xử lý. Cụ thể:

- Xử lý vi phạm hành chính: Theo Điểm g Khoản 3 Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định: Người nào có hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngày 03/2/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử; có hiệu lực thi hành từ 15/4/2020 và thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

- Xử lý hình sự: Theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau:

Người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid – 19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh Covid – 19 thì bị xử lý về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

9. Hỏi:  Đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người mắc bệnh Covid-19 có bị xử lý không?

Trả lời:

Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi để xử lý. Cụ thể:

- Xử lý hành chính:

Theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 10 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A.

Như vậy đối với người có hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người mắc bệnh truyền nhiễm Covid-19 sẽ bị phạt tiền từ 5-10 triệu.

- Xử lý hình sự:

Theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau:

- Đối với người đã được thông báo mắc bệnh: Người nghị ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid – 19 đã được thông báo cách ly thực hiện một trong các hành vi sau đây: gây lây truyền dịch bệnh Covid – 19 cho người khác thì bị coi là thực hiện "hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người" quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người:

a) Trốn khỏi nơi cách ly;

b) Không tuân thủ quy định về cách ly;

c) Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;

d) Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

- Người chưa xác định mắc bệnh Covid – 19 nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295:

a) Trốn khỏi nơi cách ly;

b) Không tuân thủ quy định về cách ly;

c) Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;

d) Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

10. Hỏi:  Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid-19 để mua vét hàng hóa bán lại thu lời bất chính bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo  Điểm b Khoản 1 Điều 46 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người nào có hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm hàng hóa để mua vét, mua gom hàng hóa có giá trị từ 50 triệu đến dưới 100 triệu đồng nhằm bán lại thu lợi bất chính khi thị trường có biến động về cung cầu, giá cả hàng hóa do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh hoặc diễn biến bất thường khác sẽ bị xử phạt hành chính từ 5 - 10 triệu đồng.

Tùy vào giá trị hàng hóa mua vét, mua gom quy định tại Khoản 2, 3, 4, 5 của Điều này mà có mức phạt tương ứng. Mức phạt tiền cao nhất của hành vi này là 100 triệu đồng.

Bên cạnh đó, tại Khoản 6 Điều này còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật đối với hành vi vi phạm; tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề từ 06 tháng hoặc đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm; đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hóa vi phạm từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm.

Khoản 7 Điều này còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điều này.

Theo Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã hướng dẫn TAND các cấp xét xử trường hợp này như sau: Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid – 19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý  về tội đầu cơ theo quy định tại Điều 196 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

11. Hỏi:  Xin cho biết thẩm quyền xử phạt các hành vi nêu trên?

Trả lời:

Căn cứ vào mức phạt tiền để xác định thẩm quyền xử phạt như sau:

1. Chủ tịch UBND cấp xã: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 5.000.000 đồng.

2. Chủ tịch UBND cấp huyện: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 25.000.000 đồng.

3. Chủ tịch UBND cấp tỉnh: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 50.000.000 đồng.

4. Thanh tra y tế:

- Thanh tra viên: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 500.000 đồng.

- Chánh thanh tra Sở Y tế: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 25.000.000 đồng.

- Chánh thanh tra Bộ y tế: Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 50.000.000 đồng.

12. Hỏi:  Khi dịch lây lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế - xã hội của đất nước thì phải ban bố tình trạng khẩn cấp. Xin cho hỏi, nguyên tắc và thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch?

Trả lời:

Điều 42 của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 quy định về nguyên tắc và thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch như sau:

-Việc ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:

+ Khi dịch lây lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế - xã hội của đất nước thì phải ban bố tình trạng khẩn cấp;

+ Việc ban bố tình trạng khẩn cấp phải công khai, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền.

- Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết ban bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp ngay được thì Chủ tịch nước ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.

 

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập27
  • Máy chủ tìm kiếm8
  • Khách viếng thăm19
  • Hôm nay1,904
  • Tháng hiện tại101,632
  • Tổng lượt truy cập4,563,709
Văn bản pháp luật 1
Tiếp cận pháp luật
Học tập và làm theo lời bác
Văn bản pháp luật
Tài liệu xúc tiến đầu tư
Công khai tài chính
Văn bản pháp luật
Công báo tây ninh
Chung tay cải cách hành chính
Thư điện tử
trung tam tro giup phap ly
Đảng bộ tỉnh Tây Ninh
Theo dõi thi hành pháp luật
Hoi dap truc tuyen
CUNG CẤP THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Bộ pháp điển
Liên kết Website
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây