Là một trong những quy định ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án vì trong một số trường hợp nếu người phạm tội đã bị kết án, thuộc trường hợp có án tích nhưng chưa được xóa là một trong những cơ sở để định tội; hoặc có thể là tình tiết định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bộ luật Hình sự quy định có 02 loại xóa án tích: “Đương nhiên được xóa án tích” và “Xóa án tích theo quyết định của Tòa án”, cụ thể:
1. Đương nhiên được xóa án tích
Đương nhiên xóa án tích là đến một thời hạn theo quy định của pháp luật, người bị kết án chấp hành xong đầy đủ các quyết định của bản án và không có hành vi phạm tội mới trong thời hạn do luật định, thì người đó đương nhiên được xóa án tích.
Đương nhiên được xóa án tích áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh).
- Thẩm quyền xóa án tích trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP) cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tại Khoản 4, Điều 70, Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định: "Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu LLTP xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này".
Theo quy định của Luật lý lịch tư pháp thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là: Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia – Bộ Tư pháp.
- Để được đương nhiên xoa án tích thì tại Khoản 2 Điều 70 BLHS quy định: “Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn được xem xét xóa án tích nêu trên (01 năm, 02 năm, 03 năm, 05 năm) thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Ngoài ra, trong thời hạn xóa án tích thì người bị kết án không được thực hiện hành vi phạm tội mới. Tội phạm mới này có thể là bất kỳ loại tội phạm (có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý). Nếu như người bị kết án chưa được xóa án tích lại phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành (khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự năm 2015).
*Lưu ý: Cá nhân nên lưu giữ các giấy tờ liên quan đến quá trình chấp hành án của mình như: bản sao bản án hình sự; giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biên lai thu tiền án phí và các nghĩa vụ khác trong bản án hình sự (nếu có); giấy chứng nhận đặc xá,... Việc lưu giữ các giấy tờ này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính người từng bị kết án, khi cần thiết người đó có thể cung cấp cho Cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp để hỗ trợ quá trình tra cứu, xác minh thông tin, giúp việc xóa án tích sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn.
2. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án nhân dân
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71 Bộ luật Hình sự năm 2015): Được áp dụng đối với người bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện:
+ Tòa án quyết định xóa án tích căn cứ vào tính chất tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.
+ Thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án được xác định là từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn:
- 01 năm nếu bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 05 năm nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm,
- 07 năm nếu bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn trên thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Như vậy, trường hợp xóa án tích theo Quyết định của Tòa án thì người bị kết án phải đáp ứng nhiều điều kiện hơn so với trường hợp đương nhiên xóa án tích. Tức là, bên cạnh việc chấp hành xong bản án, không có hành vi phạm tội mới (không bị khởi tố bị can) trong một thời hạn theo quy định của pháp luật, thì Tòa án còn phải xem xét trên cơ sở tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án để ra Quyết định xóa án tích.
Đối với trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.
- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72 Bộ luật Hình sự năm 2015):
Người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật hình sự 2015.
Trường hợp người bị kết án nhưng không có án tích:
*Trường hợp người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích. (khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017).
*Trường hợp người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; Người bị áp dụng biện pháp tư pháp: Giáo dục tại trường giáo dưỡng.
*Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
PHÒNG HCTP&BTTP
Tác giả: Quản trị
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn